Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Làng dưỡng lão ở Việt Nam

 

 LÀNG DƯỠNG LÃO

 

Làng dưỡng lão Việt kiều

image
Vắng tanh làng dưỡng lão Việt kiều tiêu chuẩn châu Âu

 Làng dưỡng lão đầu tiên và có lẽ đến nay vẫn là duy nhất ở Việt Nam được đánh giá đạt tiêu chuẩn châu Âu, người dân thường gọi là “Làng dưỡng lão Việt kiều”, giờ bỗng vắng lặng lạ thường.

image
Làng dưỡng lão Việt kiều đẹp nhưng vắng tanh.

Ra khỏi “thiên đường”
Thật bất ngờ khi đến Làng an dưỡng Ba Thương (huyện Củ Chi, TPHCM) tôi gặp một cặp cô dâu chú rể đang chụp hình đám cưới trong làng! Ở đây, những con đường rợp cây xanh, thậm chí con đường dẫn đến toa lét công cộng cũng đi giữa hai hàng cau. Nhà thủy tạ mọc giữa hồ sen, nhà ngâm thơ, nhà tập thiền, sân thể dục, hồ nước lung linh, trong đó đặt con thuyền gỗ nhỏ, một khu biểu diễn nghệ thuật và xem phim. Khung cảnh làng dưỡng lão đẹp không thua kém gì một khu nghỉ dưỡng cao cấp dành cho giới thượng lưu!

image
Một góc làng nghỉ dưỡng.
Những ngôi nhà dành cho người già được xây riêng biệt, gồm bốn phòng, mở cửa ra bốn phía. Mỗi phòng hơn 20 mét vuông trang bị ti vi, tủ lạnh, điều hòa, như phòng khách sạn. Các cụ già được nấu cơm theo từng thực đơn riêng. Đội ngũ điều dưỡng viên được đào tạo luôn theo dõi sức khỏe của họ.
Giang, một nhân viên ở làng dưỡng lão, nói: “Ở đây có cả các cụ trong nước và các cụ Việt kiều cùng an dưỡng. Làng được xây dựng từ năm 2007, trải nhiều thăng trầm”. Cụ lớn tuổi nhất là 92 tuổi, người Sài Gòn. Còn các cụ đa số trên 70 tuổi. Cụ Ái - Việt kiều cao tuổi nhất 85 tuổi.
Các cụ già Việt kiều, hoặc người Việt Nam nhưng con cái ở nước ngoài, đều khá cô độc nên đã tìm tới làng dưỡng lão. Nhiều người thích không khí yên tĩnh ở đây nhưng không chọn nơi đây làm chỗ nghỉ dưỡng cuối đời, bởi mô hình này còn quá mới và giá cả không rẻ.

image
Người ở ít thì chừng vài tháng, có người ở chừng một năm. Cá biệt có người đã ở làng bốn năm. Nhiều người mất vợ hoặc mất chồng. Nhưng cũng có hẳn một cặp vợ chồng già đang ở trong làng giữa phong cảnh đẹp như mơ.
“Người ta cứ ở rồi đi. Có người phải về nước ngoài lãnh tiền trợ cấp rồi quay lại. Có người đi về nước ngoài rồi kẹt, chưa thấy về”. Giang nói “nhân viên trong trại thường nhận được những lá thư gửi về từ Mỹ, châu Âu, cám ơn sự chăm sóc của làng”. Anh Hải, nhân viên của làng nói: “Ai cũng mong ngày trở lại. Các cụ ra đi, buồn lắm”.
Bà Long đã ở bốn năm trong làng dưỡng lão. Năm nay bà 83 tuổi. Bà thích không khí ở Việt Nam. Về nước, bà được nghe tiếng Việt hàng ngày, trò chuyện với người cùng trang lứa, ăn những món yêu thích. Điều đó khác nhiều với khi bà ở Mỹ. Nhưng khi tôi đến, bà Long cũng chuẩn bị rời khỏi làng an dưỡng. “Người ta đã thông báo tạm ngưng nhận khách để thay đổi hình thức kinh doanh” – người nhà của các cụ nói.

image
Dạo quanh một vòng, thấy Làng an dưỡng vắng tanh. Cảnh đẹp, nhưng chẳng có người già. Một người con (gần 60 tuổi) từ Tây Ninh lên thăm mẹ, ngồi buồn bên bậu cửa, nói: “Làng bảo chúng tôi đưa các cụ về để họ nâng cấp sửa chữa. Chúng tôi còn có nhà đưa mẹ về, những người không có nhà cửa ở Việt Nam thì sao đây?”. Cô cho biết phần lớn các cụ già đã ra khỏi làng Ba Thương.

Giấc mơ quá lớn?

image
Một cụ già đang sắp sửa rời khỏi “tiên cảnh” làng Ba Thương (nay là thôn Kinh Đông).
Anh Tùng làm giám đốc điều hành làng Ba Thương đã 7 năm, nói: “Đầu tư vào làng quá lớn mà tiền thu được không đáng kể, thu không đủ bù chi, liên tục thua lỗ, không thể duy trì mô hình cũ được nữa”. Theo anh Tùng, số cụ ở Việt Nam vào làng không nhiều: “Quan niệm của người Việt ta còn nguyên nếp cũ. Người nào quan niệm thoáng lắm mới đưa cha mẹ vào làng dưỡng lão, đa số vẫn để các cụ ở nhà thôi. Việt kiều thì thoáng rồi, nhưng không lẽ chúng tôi chỉ nhận khách Việt kiều? Hơn nữa, chúng tôi không thể áp dụng hai mức giá cho các cụ”.

image
Mức giá hiện tại áp dụng chung là 8 triệu đồng/ tháng. Giám đốc điều hành nói: “Với các cụ trong nước, mức 8 triệu đồng mỗi tháng đã than mắc, làm sao tăng lên 20 -30 triệu được. Không có tiền làm sao duy trì phát triển? Chúng tôi có hơn 80 phòng, nhưng hiện chỉ có mười mấy cụ thôi”.
Sau 5 năm đưa vào sử dụng, phòng ốc bắt đầu xuống cấp. Anh Hải, nhân viên của làng nói: “Tôi làm bảo vệ, có tháng lương được hơn một triệu đồng. Sống giữa nơi tiên cảnh, nhưng lại không có tiền. Chỉ vì chữ tình mà làm thôi”. Nhiều người cho rằng mức thu 8 triệu mỗi tháng quá cao so với mức sống của người già Việt Nam. Bởi vậy ít khách. Một Việt kiều nói rằng: “Các cụ Việt kiều không hẳn ai cũng giàu có. Bằng chứng nhiều người chỉ có thể lưu lại vài ba tháng để an dưỡng, rồi họ lại về Mỹ, về châu Âu”.

image
Anh Hải cho biết: “Ông giám đốc cũ đã cùng anh em dựng lên làng an dưỡng Ba Thương từ mảnh ruộng để thành làng nghỉ dưỡng tiêu chuẩn châu Âu”. Nhưng rồi, khách trong nước thì ít, khách Việt kiều đến rồi đi. “Tình hình kinh tế rất bi đát – anh Hải nói – giám đốc cũ đột quỵ qua đời khi mới hơn 50 tuổi”.

Có còn ngày trở lại?

Mới đây, một bác sĩ Việt kiều đã quyết định mua lại dự án để duy trì và phát triển làng. Gặp vị giám đốc mới, ông cho biết: “Trước kia là làng an dưỡng, nay tôi nâng cấp thành làng nghỉ dưỡng. Tôi đặt lại tên là thôn Kinh Đông vì ở đây có con kinh Đông”.

image
Người chủ mới là Việt kiều Pháp, ông đánh giá: “Việt Nam mình chưa nơi dưỡng lão nào đáp ứng được tiêu chuẩn trại dưỡng lão châu Âu, trừ cái làng này. Ở nước Pháp có trên 4.000 cái như vầy”.
Người chủ mới than phiền, hiện còn hơn chục giường có khách, nhưng điều kiện chăm sóc người già rất thiếu thốn: “Chúng tôi phải nâng cấp làng này thành nơi nghỉ dưỡng. Chúng tôi đang làm sân đánh golf, sân quần vợt, bể bơi. Như thế, làng có thể đón được những Việt kiều về Việt Nam chăm sóc bố mẹ có nơi lưu lại, tăng doanh thu, lấy tiền nuôi các cụ. Chúng tôi sẽ đón nhiều khách nghỉ dưỡng hơn, không kể tuổi tác, và nhiều Việt kiều về hơn”.

image
Được biết, khoảng cuối năm làng sẽ hoạt động trở lại.
Một gia đình ở Bến Cầu, Tây Ninh tâm sự rằng đang chuẩn bị đưa mẹ về nhà. Bà cụ đang đọc kinh. Người con gái nghe phong thanh, “sau khi nâng cấp sửa chữa, sẽ đón khách trở lại, nhưng mức giá có thể cao hơn rất nhiều”.

Cô nói: “Hẳn làng sẽ còn đẹp hơn bây giờ. Nhưng, với mức thu nhập bình quân của người lao động Việt Nam như chúng tôi, thì có lẽ càng ít người già trong nước có thể nghỉ dưỡng được trong ngôi làng đạt tiêu chuẩn quốc tế này”.

Cô nhi viện và Viện dưỡng lão

image
Note: Tất cả những hình trong bài này là hình minh họa
Từ xưa đến nay, tôi chưa bao giờ có ý tìm lại cha mẹ. Tôi hiểu rằng những đứa con lai, nhất là lai Mỹ đen như tôi, là những đứa con ngoài ý muốn; hầu như ít khi biết thực sự cha của đứa trẻ là ai.

image
Tôi bị Mẹ của tôi bỏ sau khi sinh ra mới có 48 giờ ở tại nhà thương. Tôi lớn lên trong cô nhi viện và trốn ra khỏi cô nhi viện năm 13 tuổi, ra giang hồ bữa đói bữa lạnh; sau cùng ghép hộ làm con một gia đình có 4 em 2 trai 2 gái để ra đi sang Mỹ theo diện Con Lai.

image
Tôi đến Mỹ năm 20 tuổi và đi làm ngay góp phần nuôi 4 đứa em đi học. Sau 18 năm các em 2 đứa là bác sĩ, 2 đứa là kỹ sư; Tôi bị ba má nuôi đuổi ra khỏi nhà vì gia đình sợ mang tiếng với suôi gia nhà trai nhà gái của 4 đứa em tôi. Tôi chưa được đến trường ngày nào trên đất Mỹ.

Mới 40 tuổi mà mắt đã mờ! Tôi đến gặp Bác sĩ gia đình, xin giấy giới thiệu gặp Bác sĩ chuyên khoa để có đốt hay mổ gì thì họ đưa đi hay chữa cho khỏi mất công.
20 năm rồi trên đất Mỹ, nhưng tiếng Mỹ của tôi chưa đầy lá mít,  nên tôi nhờ cô thư ký ở văn phòng bác sĩ gia đình tìm Clinic nào có người nói được tiếng Việt. May sao có clinic lớn mà chỉ đợi có 2 tuần, nhưng lại phải là giờ cuối cùng sắp đóng cửa!

Tôi đến sớm trước giờ hẹn nửa tiếng, đưa giấy giới thiệu cho một bà Mỹ già rồi ngồi ở phòng đợi chờ tới phiên. Tôi nhìn quanh coi có ai là Việt Nam mình không, nhưng chẳng thấy ai.  Bệnh nhân lần lần được gọi vào phòng khám rồi ra về gần hết vì sắp đến giờ đóng cửa. Sau cùng thì tôi cũng được gọi tên do một cô gái có nét Việt Nam mà từ nảy giờ tôi chưa hề thấy. Cô ta nói tiếng Anh với tôi từ lúc gọi tên đến lúc bảo ngồi ghế nhìn đọc. Tôi không hiểu rõ hết được nên hỏi cô có nói được tiếng Việt Nam không? Cô ta tỏ ra ngạc nhiên.

image
- Anh không phải là người Mỹ sao?
- Tôi là người Việt Nam.
- Nhưng Anh đâu có nét nào giống người Việt đâu?
Như biết mình lỡ lời, cô ta nói thêm tiếng “Sorry“.
- Chị không phải Sorry, nhiều người nói như thế mà! Tại tôi giống Mỹ Đen. Chị quê ở đâu ở Việt Nam?
- Ba tôi người Mỹ Tho, Mẹ ở Bình Dương nhưng tôi sinh ra ở Miền Trung, Nha Trang. Anh tôi và tôi đều sinh ở Nha Trang vì cha là Hải Quân  phục vụ ở Quân Trường Nha Trang.
- Tôi cũng sinh ở Nha Trang; nhưng rất tiếc là không biết cha mẹ của Tôi là ai?
- Anh sinh năm mấy? Cô ta vừa hỏi nhưng nhớ lại hình như câu hỏi có hơi thừa. Hồ sơ bệnh của tôi đang để trên bàn nên cô ta nhìn và ngạc nhiên nói:
- Ngày tháng năm sinh của anh giống y như của tôi! Có phải anh sinh ở nhà Bảo sinh Quân đội Nha Trang hay không?
- Đúng rồi, sau cô biết vậy?
- Ba má tôi có kể cho tôi nghe và tôi còn nhớ. Tôi sinh ra lúc 12 giờ trưa thì khoảng 8 giờ tối có một bà nữa sinh một bé trai. Sáng hôm sau, khi cha tôi vào thăm, mẹ tôi nói là bà mẹ sinh tối hôm qua muốn cho con của bà. Ba tôi nói, vậy mình xin, sẵn nuôi luôn có gì mướn thêm người giúp việc có sao đâu. Mẹ tôi nói Mỹ đen đó. Cha tôi nghe vậy, có đến nhìn thằng bé, rồi trở lại bảo nó cũng không đen lắm, trông rất dễ thương. Nhưng mẹ tôi không đồng ý, nói sợ người ta đàm tiếu. Cha tôi bảo: Anh bất cần thiên hạ. Chỉ cần em chịu là anh xin ngay. Nhưng cuối cùng mẹ tôi không chịu và nói mình đã có một trai một gái đủ rồi.

image
Thấy tôi chú ý nghe câu chuyện, cô ta nói thêm:
- Nếu anh là Mỹ trắng, có lẽ mẹ tôi đồng ý nuôi anh, và anh đã là em của tôi.
Sau phần làm thủ tục, tôi phải vào gặp bác sĩ chuyên khoa, khi xong thì cô ta đã về rồi.
Tôi về nhà mà vẫn bị ám ảnh vì câu chuyện do cô y sĩ nhãn khoa kể lại.
Ba của cô ta là người thế nào? Sau ông ta lại có ý tưởng xin tôi để nuôi? Phải tìm gặp ông ta mới được, tôi tự nhủ.

Ít ngày sau, tôi trở lại tìm gặp cô nha sĩ khám bệnh cho tôi hôm trước và xin được gặp Ba của cô ta. Cô ta bằng lòng ngay, viết cho tôi địa chỉ. Nhìn địa chỉ tôi hơi ngạc nhiên với 3 chữ “Viện Dưỡng lão”. Cô ta như đoán biết nên nói:
- Ba của tôi mới được đưa vào Viện Dưỡng Lão hôm tháng rồi.
Ngay Chủ nhật tuần đó, tôi vào Viện Dưỡng Lão xin gặp cái ông đã từng muốn nhận tôi làm con. Nếu tôi là con của ông ta, chắc tôi cũng sẽ như ba đứa con của ông đều tốt nghiệp Đại học cả, vì dù sao những kẻ có lòng tốt không để Tôi thất học.

image
Tôi chọn cái ghế nhìn được suốt dãy hành lang từ phòng khách đến phòng ăn để dễ nhìn người qua lại bên trong. Một Ông chừng 65 là cùng mặc dù người tôi muốn gặp nay đã 71. Ông ta đi còn nhanh nhẹn lưng không khòm tay chân nhịp đi đúng là người lính nhiều năm trong quân ngũ năm xưa; chẳng có vẻ gì là một cụ già đến độ phải vào Viện Dưỡng lão để chờ chết!

Hình như được con gái báo trước nên ông ta đi thẳng đến đưa tay bắt tay tôi và từ giới thiệu:
- Chú tên là Hùng, cứ gọi tên và gọi Chú cho bớt già hơn là gọi Cụ hay Bác.
Ông ta còn lanh lẹ, tiếng nói còn uy nghi rành rọt không có chút gì run rẩy hay khàn giọng của người già.

image
Ông ta hỏi: Tôi dành bao nhiêu thì giờ để gặp ông ta. Tôi nói cả ngày hôm nay cũng được. Ông ta hỏi tôi có uống cà phê và hút thuốc được không. Tôi nói được cả hai.
Ông ta đến nói với người quản lý xin được tiếp tôi ở phòng riêng để mời người bạn trẻ ly cà phê; rồi ông bảo tôi đi theo ông ta.
Theo ông ta về phòng riêng, tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác.
Căn phòng có mùi dầu thơm chứ không khai và hôi như thiên hạ thường nói về nơi người già sống. Cái bàn Computer có cả máy in TV DVD player và Multimedia player với mấy chồng CD và DVD ca nhạc. Ông ta bắt đầu nấu nước pha cà phê phin; vừa làm vừa giải thích đây là cà phê Ý pha với cà phê Ban Mê Thuộc cho có đủ vị đắng và thơm.
Xong hai ly cà phê, ông bảo tôi “Đi, mình ra vườn. Ra bằng cửa này.” Cửa hông từ trong phòng riêng của ông mở thẳng ra vườn.  Ông nói, áp phe lắm mới được phòng nầy ăn thông ra vườn để trốn ra ngồi hút thuốc.

Khu vườn thoáng mát, vắng vẻ. Ông lấy ra bao thuốc Vogue mời tôi một điếu. Đây là loại thuốc điếu nhỏ chỉ bằng phân nửa điếu thuốc thường nhưng dài hơn và nặng hơn. Ông đốt thuốc cho Ông và đưa quẹt gaz cho tôi để tự tôi đốt lấy. Hớp xong hớp cà phê ông hỏi:
- Vừa không Cháu?
- Dạ ngon và thơm lắm, Chú.
- Nào giờ thì cháu muốn biết gì cứ hỏi. Chú nhớ được gì sẽ nói nấy.
- Cháu không có mục đích tìm cha hay mẹ, vì có muốn chắc cũng không bao giờ tìm được mà tìm để làm gì! Chú biết được nhớ được gì cháu cũng muốn biết hết.

image
- Con trai lớn của chú và con gái đều sinh ở bảo sinh viện Quân đội thành phố Nha Trang. Con gái của chú sinh lúc 12 giờ trưa. Chú bận nên 2 giờ chiều mới vào thăm sau đó đi làm và chiều vào thăm vợ con đến gần 7 giờ thì về. Sáng hôm sau chú vào thăm vợ con sớm trước khi đi làm thì phòng bên có thêm một sản phụ mới. Vợ chú nói bà ta mới sinh lúc 9 tối, nhưng không muốn nuôi nên cho con.
Chú bước sang đứng cửa phòng bên nhìn vào hơi tối nhưng cũng thấy mặt được cháu bình thường như bao trẻ khác nhưng đẹp hơn con gái chú nhiều; vì khi mới sinh con bé của chú trán nhăn ba lằn, giống y như chú, mũi gãy trán cao gần như vồ. Chú trở lại nói với vợ là mình có thể xin đứa bé. Nếu nuôi luôn 2 đứa chú sẽ mướn thêm người giúp việc. Nhưng vợ chú nói “Con Mỹ đen đó. Anh không sợ nhưng Em sợ miệng đời. Chú nói, không lẽ sinh đôi mà một đứa con Việt nam còn đứa kia là con Mỹ hay sao mà sợ. Vợ chú nói thôi, nếu trắng em mới nuôi. Chú Sorry với cháu. Tại chú cháu mình không có cái duyên làm cha con với nhau!
Thấy tôi chăm chú nghe nhưng không nói gì, ông kể tiếp:
- Chiều hôm đó Chú vào thăm thì thấy Má của cháu đi lại nhanh nhẹn chứ không nằm liệt như vợ của chú. Mẹ của cháu là người cao lớn, đẹp, coi mạnh khỏe và lanh lợi hơn vợ của chú. Nghe nói mẹ cháu ở đâu ngoài Chu Lai hay Qui Nhơn gì đó vào Nha Trang sinh; Chồng bà ta là Trung Úy Biệt Kích đi hành quân vùng Một ít khi về thăm. Có lẽ Má của cháu làm sở Mỹ có quan hệ trong sở, nên khi có bầu không biết là con của chồng mình hay với ai nên cứ sinh rồi mới tính. Nếu là con Việt thì đem về nuôi mà là con lai thì cho luôn. Sáng hôm sau, khi chú vào thăm thì vợ chú cho biết người đàn bà đó đã bỏ con và rời nhà thương lúc nửa đêm; nên nhà thương giao cháu cho Ban Xã hội của Quân Đội lo. Hầu hết là đem vào Viện Mồ Côi. Chú chỉ biết bao nhiêu đó. Cháu còn muốn biết đìều gì thì cho biết,  nếu chú có thể giải thích thì chú sẽ nói cho Cháu biết.
Tôi nói với ông:
- Chú đã nói ra tất cả những gì cháu thắc mắc. Bấy lâu cháu thắc mắc “Tại sao không muốn sinh con mà không phá thai; sinh ra để bỏ thì sinh làm gi?” Nay chú nói cùng môt lúc sống với chồng mà còn phải sống với Mỹ thì làm sao biết con của ai nên cứ phải sinh ra rồi mới tính thì có lẽ là cách giải thích hợp nhứt cho trường hợp của cháu. Cháu hận mẹ hận cha mặc dù cháu không biết họ là ai;  Từ thời thập niên 60 đến 1975 không biết đã có bao nhiêu trẻ mồ côi như cháu. Cháu hận bà mẹ, hận đàn bà nên đến nay mà cháu vẫn chưa lập gia đình!

image
Ông ta mồi thêm điếu thuốc và để gói thuốc cạnh tôi ra dấu mời. Tôi xoa tay từ chối trong im lặng. Ông ta đột nhiên cười khá lớn rồi ngó vào mắt tôi hỏi:
- Cháu có biết Viện Dưỡng Lão để làm gì không?
- Thì để cho người già sống.
- Ừ! Cả miền Nam Việt Nam trước 75 chú chỉ biết có một Viện Dưỡng lão ở Thị Nghè gần Xa Lộ Biên Hoà; nhưng cũng chỉ có mấy chục người, gồm những người không nhà, không con cháu không thân nhân mà người ta gọi là tứ cố vô thân. Tại Việt Nam trước đây, hầu hết người già sống nhờ vào con cháu nuôi vì bởi cha mẹ còn trẻ làm nuôi con cháu đến khi già thì nuôi lại coi như trả hiếu hay trả công. Xứ tư bản này, mỗi tiểu bang có mấy chục Viện Dưỡng lão. Già thì dù có con hay không con, có nhà hay không nhà giàu sang cũng như nghèo cũng đều phải vào Viện Dưỡng lão, bởi lý do con cháu ai cũng bận đi làm, không chăm sóc được.
Ông thở khói rồi tiêp:
- Chú có ba người con, ba cháu nội thì còn quá nhỏ không tính; nhưng cả đời, chưa bao giờ chú để các con của Chú đói lạnh. Sau 75 khổ sở thế nào Con của Chú vẫn không bị ăn độn. Sau đó chú đi vượt biên để được sống tự do và Vợ Con của Chú sang đây bằng máy bay do Chú bảo lãnh.

Ngày xưa chú còn trẻ sinh con bận bịu tại sao chú không gởi vào Viện Mồ Côi để được rảnh đi làm và hưởng thụ cái tuổi hoa mộng của Chú. Bận rộn đi làm lắm khi đói khổ vẫn không bỏ các Con; (một câu than nhẹ nhưng buốt thấu tâm can; suy nghĩ, học và hành cả một đời cũng không hiểu hết tình cha) nhưng Cháu có biết tại sao Chú còn mạnh khỏe đáng lý chưa đến độ vào đây; thế mà chú lại ở đây! Chú cũng còn là con người biết đủ hỷ nộ ái ố lạc, 71 tuổi là già nhưng Chú chưa mất trí còn tự mình chăm sóc được nhưng Chú bị tai biến mạch máu; Tim ngừng đập nên xe cứu thương đưa vào bệnh viện. Từ bệnh viện có thể đưa trực tiếp người già vào viện dưỡng lão ít có xét hồ sơ hay phỏng vấn phiền toái coi thực sự già lú lẫn hay chưa như trường hợp ở nhà muốn gởi vào Viện Dưỡng lão.

Người già nào hay nói ra người trẻ cũng lắm khi quên tắt lửa lò bếp hay quên chìa khóa hay quên bóp; nhưng già mà bị tố là có lắm cái quên như thế thì bị kết tội là “lú lẫn”. Chú bị đưa thẳng vào Viện Dưỡng lão trong trường hợp nầy cho dễ hơn nếu sau nầy chú về nhà thì khó có được sự dễ dàng để vào đây nên các con của chú tố chú lú lẫn để bỏ luôn chú vào đây một cách dễ dàng sớm hơn dự định của Chú.
Có con nhưng chúng bận rộn đi làm chúng có đời sống riêng nên không chăm sóc cho cha mẹ già được. Cháu thấy lý do nầy hợp lý chứ?(một câu hỏi nhẹ nhưng buốt thấu tâm can; suy nghĩ và tự mỗi người làm con tại hải ngoại sẽ tìm câu trả lời cho chính mình.
Nghe ông hỏi, tôi không biết trả lời ra sao. Ông tiếp tục châm thuốc, tiếp tục nói, vẫn với giọng tỉnh queo:

image
- Tuổi trẻ chú bận vừa đời lính lại khi VC chiếm Miền Nam thì cơ cực lầm than dễ gì đủ ăn no lòng; sao chú khờ dại không bỏ con mà chạy lấy thân để vui cuộc đời Việt Kiều độc thân. Tại sao phải thí mạng vượt biên rồi còn bảo lãnh con, nuôi con cho nên người để rồi các con cũng có thời tuổi trẻ bận như mình. Chúng bỏ mình nhưng ngày xưa mình lại không biết bỏ chúng. Cháu biết tại sao không? Là tại mình ngu.
Ông ta cười lớn nhưng sao cái cười quá chua chát:
- Cháu về bỏ hết, quên hết đi cái đời mồ côi của cháu đi mà vui sống. Vì cháu nên người ta mới lập “Viện Mồ Côi.” Và cũng vì có chú nên người ta mới lập “Viện Dưỡng lão.”

image
Lời an ủi của người từng có ý định làm cha nuôi của tôi làm tôi thấy mềm lòng. Nhìn ông, người cha bị con cái thành đạt bỏ vô viện dưỡng lão, tôi thật cũng muốn nói điều gì đó an ủi ông, nhưng không biết phải nói ra sao.
Trần Thiện Phi Hùng

Cõi già trên đất lạ

image
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.

Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.

Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa. Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, và chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.

Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.

Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả đến ai bây giờ.
image
Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.

Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và bổ xua lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi.

image
Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?

Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự cô đơn!

image
Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.

Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa.
Andrew Lâm

Cõi Già Trên Đất Lạ [Nguyễn Đức Nguyên chuyển ngữ] thuật lại theo lời kể của mẹ anh, bà Ngọc Bich Lâm(Lâm Quang Thi).

Andrew Lam là một biên tập viên của NAM (New American Media) và cũng là tác giả cuốnPerfume Dreams: Reflection on the Vietnamese Diaspora ( Những Giấc Mơ Hương: Hoài Niệm Cuộc Sống Xa Quê) (Heyday Books, 2005). Cuốn sách này gần đây đoạt giải thưởng Beyond Margins 2006 của Trung Tâm Văn Bút Mỹ (PEN American Center).

2 nhận xét: